Sunday, January 3, 2021

Đại Hội 2 Đảng CSVN

Nói Với Người Cộng Sản

Sau đây, mời quý thính giả theo dõi chuyên mục “Nói với người cộng sản”. Đây là diễn dàn để trình bày với các đảng viên đảng CSVN, đặc biệt những người đang phục vụ trong guồng máy công an và bộ đội của chế độ hiện hành. “Nói với người cộng sản” do Tiến Văn biên soạn, qua sự trình bày của Tâm Anh

Tiến Văn

Thưa quí vị đảng viên cộng sản lâu năm cùng các bạn công an, bộ đội,

Chúng ta đã bước vào năm 2021, chuyên mục Nói Với Người Cộng Sản xin kính chúc anh chị em và quí vị một năm dương lịch An Bình.

Trong năm 2021 này có hai sự kiện lịch sử rất đáng nhớ.

Sự kiện đầu tiên là Đại hội lần thứ 2 của đảng Hồ-Tàu tổ chức tại Tuyên Quang vào tháng 2 năm 1951, cách đây 70 năm.

Sự kiện thứ hai là sự sụp đổ, giải tán Liên Bang Xã Hội Chủ Nghĩa Sô Viết vào ngày 25 tháng 12 năm 1991, cách đây 30 năm.

Trong chuyên mục hôm nay chúng ta sẽ đề cập một số chi tiết liên quan tới Đại hội 2 của đảng Hồ-Tàu, tức Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Thưa quí anh chị em và quí vị, vào thời điểm đầu năm 1951, tại Việt Nam chính thức không còn tồn tại đảng cộng sản bởi vào ngày 11 tháng 11 năm 1945, Đảng Cộng Sản Đông Dương đã tuyên bố tự ý giải tán.

Tuy nhiên, tuyên bố “tự ý giải tán” chỉ là một thủ đoạn “nín thở qua sông” của Hồ và bộ sậu nhằm che giấu bản chất cộng sản trước sự hồ nghi và e ngại của dư luận trong nước cũng như quốc tế.

Vào thời điểm 1945, mặc dù dư luận trong nước còn rất thiếu thông tin nhưng nhiều trí thức, nhân sĩ đã hiểu rõ bản chất tồi tệ của cộng sản qua sách báo, thông tin quốc tế; một số người còn biết Hồ và Việt Minh chính là tay chân của Đệ Tam Quốc Tế cộng sản. Vì vậy, cho dù đã cướp được chính quyền từ Vua Bảo Đại và Thủ tướng Trần Trọng Kim, Hồ và đồng bọn vẫn lo sợ bản chất cộng sản bị lộ tẩy. Đó là lí do chính khiến Hồ và đồng bọn phải ra tuyên bố “tự ý giải tán” ngõ hầu có thể trấn an, che mắt được phần nào dư luận, nhất là những người nhẹ dạ cả tin vào những lời tuyên truyền.

Tuy nhiên, với thủ đoạn lừa dối này, Hồ và bộ sậu vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc duy trì quyền lực độc tôn vì lúc này tại Việt Nam còn có rất nhiều lực lượng chính trị yêu nước phi cộng sản cũng được người dân ủng hộ, đặc biệt là giới nhân sĩ, trí thức có viễn kiến. Bên cạnh đó, bản thân Hồ cùng bộ sậu trong cái gọi là chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa rất thiếu thốn về tài chính và hoàn toàn không được một chính quyền nào trên thế giới, kể cả Liên Sô,  công nhận.

Trong bối cảnh khó khăn như thế, Hồ và đồng bọn chỉ tìm cách đối phó để tồn tại, hoàn toàn không dám nghĩ đến việc tổ chức đại hội đảng cho dù đại hội lần đầu tiên đã tổ chức từ năm 1935.

Trong việc đối phó với các phe phái quốc gia, Hồ đã không từ bất cứ thủ đoạn nham hiểm và tàn ác nào, kể cả các thủ đoạn gây nguy hiểm cho chủ quyền quốc gia. Hồ đã dùng nhiều tiền bạc và vàng trong Tuần Lễ Vàng để mua chuộc, hối lộ các tướng của Tưởng Giới Thạch nhằm cách li các đảng phái quốc gia. Ngày 26 tháng 3 năm 1946, Hồ còn kí một văn bản để chính thức cho phép Pháp quay trở lại Hà Nội cũng với mưu đồ để lợi dụng người Pháp trong việc loại bỏ các đảng phái đối lập quốc gia phi cộng sản.

Nhưng sau khi đã loại bỏ được các đảng phái quốc gia, Hồ phải đối diện với tham vọng của người Pháp và cuộc chiến Việt Minh-Pháp bùng nổ. Hồ và bộ sậu phải rút chạy khỏi Hà Nội để lẩn trốn trong núi rừng phía Bắc giáp Trung Hoa. Để che đậy sự giảo hoạt và thất bại về chính trị, Hồ ra tuyên bố và kêu gọi “toàn quốc kháng chiến”.

Trong suốt 3 năm trên rừng núi, Hồ và đồng bọn không chỉ phải trốn chạy sự truy lùng của người Pháp mà còn phải đối diện với sự tẩy chay của nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước. Trong khi đó chính quyền quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại thành lập đã từng bước xác nhận chủ quyền thống nhất ba miền của Việt Nam với sự công nhận của Pháp.

Tuy nhiên, cuối năm 1949, phe cộng sản của Mao bên Trung Hoa đã thắng phe quốc gia của Tưởng. Chiến thắng này đã làm Mao bắt đầu nghĩ tới tham vọng thôn tính Việt Nam qua lời khẩn cầu của Hồ.

Với những viện trợ của Mao, tình thế của Hồ được cải thiện rõ rệt kể từ cuối năm 1949. Trong năm 1950 có một loạt các nước cộng sản tuyên bố thừa nhận chính quyền của Hồ là hợp pháp, mở đầu là Trung Cộng, sau đó là Liên Sô và Bắc Triều Tiên.

Đây chính là bối cảnh Hồ và đồng bọn đã quyết định mở Đại Hội Đảng lần thứ 2 tại Tuyên Quang vào tháng 2 năm 1951 và đổi tên đảng thành Đảng Lao Động. Đại hội này không chỉ là một chứng cớ  xác minh bản chất gian trá của Hồ và đồng bọn; Đại Hội 2 còn là dấu mốc đánh dấu Hồ và đồng bọn công khai xác nhận danh tính cộng sản và công khai vai trò làm chư hầu đàn em cho Trung Cộng, Liên Sô.

Tâm Anh cùng Tiến Văn xin tạm biệt và hẹn gặp lại quí vị cùng anh chị em trong chuyên mục tuần tới.

03/01/2021

No comments:

Post a Comment