“Tôi đã khóc vì thấy từng có một Miền Nam đẹp đẽ đến không ngờ…”, là điều mà blogger Phạm Thanh Nghiên đã thốt lên khi thực hiện cuộc trả lời phỏng vấn nhạc sĩ Tuấn Khanh. Khi tiếp cận với sự thật, thế hệ trẻ miền Bắc, sinh sau năm 1975 nhìn nhận ra sao về Miền Nam, về cuộc xâm lược của cộng sản Bắc Việt và về tương lai đất nước? Nhân dịp kỷ niệm 48 năm ngày Quốc hận, mời quý thính giả nghe lại bài phỏng vấn tuy đã được thực hiện từ hai năm trước nhưng nội dung có nhiều điều thú vị cần chia sẻ. Vì bài gốc là cuộc phỏng vấn viết, chúng tôi xin phép sử dụng phần câu hỏi của nhạc sĩ Tuấn Khanh bằng giọng đọc của phóng viên Quang Nam.
(Ghi chép của Tuấn Khanh)
Tuấn
Khanh: Bài viết của chị tham gia cuộc thi
viết Ký ức 30-4 do Sài Gòn Nhỏ tổ chức, là một trong những bài hiếm hoi ghi
chép câu chuyện về chuyện không phải của mình mà là của gia đình chồng, kể lại
một câu chuyện hoàn toàn khác với đời sống của một người lớn lên ở miền Bắc như
chị…
Xin cho hỏi điều gì trong câu chuyện ấy tác động, làm cho chị quyết định ghi chép lại?
Phạm Thanh Nghiên: Tôi không chỉ muốn kể một câu chuyện với vỏn vẹn 3.000 từ đâu. Chuyện gia đình chồng tôi, là một nỗi buồn, niềm đau được bắt đầu từ ngày 30-4-1975, kéo dài suốt 46 năm và chưa biết bao giờ mới kết thúc.
Nếu bây giờ chúng ta
không ghi chép lại, một cách nghiêm túc nhất, đầy đủ nhất, trung thực và quả
cảm nhất thì thế hệ con cháu chúng ta sau này sẽ không được biết sự thật về một
giai đoạn lịch sử của đất nước. Một dân tộc khó mà trưởng thành nếu không nhận
diện được gương mặt của chính mình qua một giai đoạn lịch sử trong quá khứ. Chế
độ độc tài tự thân nó là một xã hội bệnh hoạn, khuyết tật, mọi sự thật đều gây
bất lợi cho thế lực cầm quyền. Thế nên rất hiếm, hoặc chẳng thể có “sự thật
lịch sử” nào được công nhận hay ghi chép lại dưới thời này. Tôi e rằng ở Việt
Nam vài chục năm nay, chỉ có các “nhà viết sử”, các “nhà sáng tác lịch sử” chứ
không có “nhà chép sử”. Mà lịch sử thì phải được ghi chép lại một cách đầy đủ
và trung thực, nhà chép sử không thể bị ràng buộc, ảnh hưởng bởi một thế lực
hay sức ép nào.
Những ký ức và thực tại được ghi chép lại hôm nay, sẽ là lịch sử của ngày mai.
Tuấn
Khanh: Miền Nam trong câu chuyện của chồng chị kể lại
cho chị cảm nhận khác biệt như thế nào về miền Bắc, nơi chị lớn lên. Những cảm
nhận đó là gì?
Phạm
Thanh Nghiên: Thế
hệ 7X của tôi vẫn tự hào với chiếc khăn quàng đỏ trên vai. Lớn lên một chút,
tôi vẫn ngồi dán mắt vào màn hình tivi mỗi dịp kỷ niệm những ngày lễ của đảng
CS với một niềm xúc động vô cùng ngớ ngẩn. Tôi từng yêu ông Hồ và đảng cộng sản
Việt Nam, đấy là hệ quả một nền (tạm gọi là) giáo dục nhồi nhét mà sau này tôi
mới nhận ra và cảm thấy thật đáng ghê tởm. Mãi đến năm 29 tuổi, tôi mới nhìn ra
sự thật. Tôi trải qua một cú sốc tinh thần ghê gớm và có lần tôi đã mô tả nó là
“vừa trải qua một cơn ốm nặng”.
Rồi tôi sốc lại tinh thần, dứt khoát với mình, dứt khoát với thời cuộc. Tôi thoát ly hẳn với những gì mình đã tin tưởng, để rồi bị-được chính đối tượng mình từng tôn thờ gọi là “phản động”, là “thành phần thù địch”. Tôi đã khóc rất nhiều, cả day dứt nữa, khi tìm hiểu về miền Nam giai đoạn 1975 trở về trước. Có một miền Nam đẹp đẽ và tốt lành đến không ngờ trong sự hình dung của tôi. Một sự tiếc nuối đến thắt lòng, cảm giác như mình bị mất đi một thứ vô giá không bao giờ tìm lại được, dù tôi sinh tại miền Bắc, sau năm 1975, và chưa được sống ngày nào trên xứ sở đẹp đẽ ấy. Biến cố tháng 4-1975 không chỉ là vết thương trầm trọng cho người miền Nam. Nó là nỗi đau đớn, day dứt cho cả một dân tộc, cho tôi và cho anh, cho tất cả những ai còn nhớ mình là người Việt.
Tuấn
Khanh: Nhưng miền Bắc cũng có những người dân có cuộc
sống rất khốn khổ mà? Được biết thêm cuộc sống của người miền Nam sau 1975 đã
giúp cho chị sự phân biệt những nỗi khốn khổ khác nhau ra sao?
Phạm
Thanh Nghiên: Khi
vào Sài Gòn sinh sống, tôi có cơ hội gặp gỡ, trò chuyện với nhiều người khác và
nhận ra một điều đáng buồn, người Việt ở hai miền Nam-Bắc có sự hiểu biết rất
hạn chế về nhau, đặc biệt là giai đoạn 1975 trở về trước. Tôi từng nói chuyện
với một số người lớn tuổi sống ở Sài Gòn và thật ngạc nhiên là họ không hề biết
có cuộc “Cải cách Ruộng đất” tại miền Bắc. Nhiều người dân miền Nam nghĩ rằng
thảm họa họ phải gánh chịu là do người dân miền Bắc gây nên mà không hề biết
rằng cần phải gọi tên một cách chính xác, đích danh giới chóp bu cầm quyền. Đây
cũng là một trong những nguyên nhân khiến người dân Việt Nam nói chung khó mà
có cái nhìn cảm thông, thấu hiểu cho nhau khi nhắc về ký ức chiến tranh.
Làm sao mà một người
miền Nam có thể hình dung những người phụ nữ miền Bắc phải vạch áo, tự cho tay
bóp thật mạnh vào bầu vú trước mặt cán bộ để chứng minh mình không có sữa, hòng
kiếm được cho đứa trẻ sơ sinh con mình một xuất sữa bò theo tiêu chuẩn nhà
nước. Nếu nặn hết sức và đầu vú còn chảy ra vài giọt sữa, đứa trẻ sẽ không có
tên trong danh sách được hưởng chế độ hỗ trợ của nhà nước. Làm sao một người
miền Nam hình dung nổi một ông thầy giáo phải cúi mình, chào một thằng nhãi
ranh bằng “ông” chỉ vì bố nó là cán bộ cộng sản.
Khi người dân miền Nam
có tivi, tủ lạnh dùng, người miền Bắc vẫn bị cái đói bủa vây. Khi phụ nữ miền
Nam biết trang điểm, mặc áo dài, váy đầm, đi giày cao gót thì phụ nữ miền Bắc
vẫn chưa biết đến cái băng vệ sinh. Họ phải dùng vải vụn, thậm chí nhà nào đông
chị em gái thì dùng chung mấy tấm khăn vải màn. Dùng xong giặt sạch sẽ để các
tháng sau mỗi kỳ kinh nguyệt lại sử dụng tiếp. Tôi không muốn kể ra chuyện này,
nhưng đó là nỗi khổ sở, thiếu thốn điển hình của người dân miền Bắc từ những
năm 1960, kéo dài đến tận thời bao cấp. Hai miền Nam- Bắc tuy có những khác
biệt ở mỗi giai đoạn lịch sử, nhưng cùng chung một nỗi đau: niềm bất hạnh mang
tên Việt Nam.
Ước gì ngày càng nhiều người dân Việt Nam hiểu đúng về sự thật đã và đang xảy ra trên đất nước này để thôi oán hận, trách cứ nhau, để cùng nhau xây dựng lại giang sơn. Muốn như thế, phải chỉ mặt đặt tên được đâu là nguyên nhân, đâu là thủ phạm gây đau thương cho dân tộc này.
Tuấn Khanh: Chị là người đã ghi chép những câu chuyện hiện
thực nhức nhối, và viết hay đến bất ngờ, dường như chị muốn đi con đường như
một nhà văn tranh đấu hiện thực…?
Phạm
Thanh Nghiên: Một
vài năm gần đây tôi thường nhận được những lời khen ngợi từ các nhà văn chuyên
nghiệp ở cả trong cũng như ngoài nước, đặc biệt các độc giả. Đối với một người
cầm bút, đó thực sự là niềm khích lệ, phần thưởng vô giá. Song cũng là một
thách thức không nhỏ cho các bài viết tiếp theo của tôi (tôi không dám dùng từ
“tác phẩm” hay “sáng tác” nên dùng từ “bài viết”). Như từng có dịp chia sẻ với
quý độc giả, tôi tin mình không phải một nhà văn và có lẽ mãi mãi sẽ không trở
thành một nhà văn. Tôi chỉ là một người cầm bút “bất đắc dĩ”, ghi chép lại
những điều tai nghe mắt thấy từ chính cuộc đời mình, từ những cuộc đời khác
trong xã hội. Cũng có lần tôi thử đặt bút viết về một đề tài khác, không liên
quan gì đến hiện thực xã hội. Tính viết chơi chơi vậy thôi, không định chia sẻ
với ai. Nhưng tôi không viết nổi. Chỉ vài dòng đã thấy nhạt nhẽo, cảm giác như
không phải là chính mình. Tôi không phải nhà văn. Tôi là một blogger và tôi
muốn viết về những hiện thực đang diễn ra trên đất nước này.
Sài
Gòn ngày 8 tháng 5 năm 2021.
No comments:
Post a Comment